Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Chạy đua cho câu hỏi: Vaccine COVID-19 có giúp ngừng lây truyền đại dịch hay không?

Khi các quốc gia triển khai vaccine ngăn ngừa COVID-19, câu hỏi được đặt ra là liệu các mũi tiêm có thể ngăn mọi người bị nhiễm hay ngăn lây truyền virus SARS-CoV-2 hay không? Vaccine có thể giúp kiểm soát đại dịch nếu chúng được tiêm trên số người đủ lớn hay không?

Theo các phân tích sơ bộ cho thấy, ít nhất vẫn có một số loại vaccine có khả năng mang đến tác dụng ngăn chặn sự lây truyền virus. Tuy nhiên, việc xác định tác động đó – cũng như mức độ mạnh mẽ của khả năng này – thực sự rất khó, vì tỉ lệ nhiễm virus nếu giảm trong một khu vực nhất định có thể được giải thích bởi rất nhiều yếu tố khác nhau như cách ly toàn bộ khu vực đó hay những thay đổi hành vi tránh tiếp xúc của những người trong khu vực cách ly. Không chỉ vậy, virus còn có thể lây lan từ những người mang mầm bệnh nhưng không có triệu chứng, nên rất khó phát hiện ra những trường hợp này.

Ngăn nhiễm virus?

Mặc dù hầu hết các thử nghiệm lâm sàng về vaccine COVID-19 cho thấy vaccine ngăn ngừa bệnh tiến triển nặng, tuy nhiên một số kết quả thử nghiệm cũng đưa ra các manh mối rằng các mũi tiêm có thể ngăn ngừa nhiễm virus. Theo các chuyên gia về vaccine cho biết, nếu một loại vaccine có hiệu quả cao trong việc ngăn ngừa nhiễm trùng ngay từ đầu, chúng sẽ giúp giảm sự lây lan của bệnh.

Trong quá trình thử nghiệm vaccine của Moderna (được sản xuất ở Boston), các nhà nghiên cứu đã khảo sát tất cả những người tham gia để xem họ có bất kỳ mã RNA nào của virus hay không. Kết quả cho thấy số ca nhiễm virus không có triệu chứng giảm 2/3 ở những người được tiêm mũi đầu tiên của loại vaccine hai liều, khi so với những người được dùng giả dược. Nhưng họ chỉ xét nghiệm trên các đối tượng nghiên cứu hai lần và cách nhau khoảng một tháng, vì vậy vẫn có thể đã bỏ sót tình trạng nhiễm virus.

Thử nghiệm ở Anh về loại vaccine do Đại học Oxford và AstraZeneca sản xuất (thực hiện xét nghiệm cho những người tham gia mỗi tuần) đã ước tính giảm 49,3% các trường hợp nhiễm virus nhưng không có triệu chứng ở một nhóm nhỏ những đối tượng được tiêm chủng so với nhóm đối tượng không được tiêm chủng. Tượng tự, Pfizer – công ty có trụ sở tại New York và là nhà sản xuất vaccine COVID-19 hàng đầu thông báo rằng họ sẽ bắt đầu kiểm tra người tham gia nghiên cứu hai tuần một lần trong các thử nghiệm vaccine đang diễn ra ở Mỹ và Argentina để đánh giá xem liệu mũi tiêm có thể ngăn ngừa nhiễm virus hay không.

Ít lây nhiễm hơn?

Có thể vaccine sẽ không ngăn chặn hoặc làm giảm được đáng kể nguy cơ bị nhiễm virus, xong việc tiêm vaccine có thể giúp những người bị nhiễm trở nên ít khả năng lan truyền virus hơn/hoặc làm cho họ ít lây nhiễm hơn, kéo theo giảm khả năng lây truyền cộng đồng.

Một số nhóm nghiên cứu ở Israel đang đo tải lượng virus – chỉ số đánh giá nồng độ của các hạt virus - ở những người được tiêm chủng nhưng sau đó có kết quả dương tính với SARS-CoV-2. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng tải lượng virus là một đại diện tốt để đánh khả năng lây nhiễm. Trong quá trình nghiên cứu sơ bộ, nhóm đã quan sát thấy sự sụt giảm đáng kể tải lượng virus khi so sánh ở một số ít người bị nhiễm virus trong 2-4 tuần đầu sau khi nhận liều vaccine Pfizer đầu tiên, so với những người nhiễm virus trong hai tuần đầu sau khi tiêm mũi 2. Những dữ liệu này mang đến sức hấp dẫn và gợi ý rằng tiêm chủng có thể làm giảm khả năng lây nhiễm của các trường hợp dương tính với COVID-19, ngay cả khi nó không ngăn ngừa được hoàn toàn sự lây nhiễm. Thử nghiệm của Oxford-AstraZeneca cũng quan sát thấy sự giảm tải lượng virus ở một nhóm nhỏ những người tham gia được tiêm chủng nhiều hơn khi so với nhóm không được tiêm chủng.

Tuy nhiên, vẫn cần thêm các nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa để có thể biết rằng liệu sự giảm tải lượng virus quan sát được này có đủ để làm cho một người nào đó sau khi được tiêm trở nên ít lây nhiễm hơn trong đời thực hay không.

Tiêu chuẩn vàng

Để thực sự xác định liệu vaccine có ngăn ngừa lây truyền hay không, các nhà nghiên cứu đang theo dõi những trường hợp tiếp xúc gần của những người được tiêm chủng để xem: liệu họ có được được bảo vệ gián tiếp khỏi nhiễm virus từ người bên cạnh hay không.

Các nhà nghiên cứu tại Đại học Nottingham đã kiểm tra các nhân viên chăm sóc sức khỏe người bệnh và những người sống cùng về kháng thể SARS-CoV-2 cũng RNA của virus từ tháng 4 - tháng 8 năm 2020, trong khoảng thời gian của đợt đại dịch đầu tiên. Họ cũng sẽ kiểm tra lại một số người sau khi được tiêm vaccine của Pfizer, cũng như những người tiếp xúc gần gũi với những người được tiêm, những người chưa được tiêm vaccine để xem liệu nguy cơ lây nhiễm có giảm đối với những người có tiếp xúc gần hay không. Nếu nguy cơ giảm, điều đó có nghĩa là vaccine có thể ngăn ngừa sự lây truyền.

Tại Israel, các nhà khoa học cũng đang lên kế hoạch nghiên cứu các hộ gia đình có một thành viên đã được tiêm chủng. Nếu những người này bị nhiễm bệnh, các nhà nghiên cứu có thể xem liệu họ có truyền virus cho các thành viên khác trong gia đình hay không.

Tại Brazil, một cuộc thử nghiệm sẽ phân phối ngẫu nhiên các liều vaccine COVID-19 do công ty dược phẩm Sinovac có trụ sở tại Bắc Kinh sản xuất đến thị trấn Serrana theo từng giai đoạn trong vài tháng. Cách tiếp cận này có thể cho thấy liệu việc giảm tỉ lệ mắc COVID-19 ở những vùng đã được tiêm phòng có góp phần làm giảm sự lây truyền ở những vùng chưa được tiêm hay không. Điều này sẽ chứng minh tác dụng gián tiếp của vaccine.

Tham khảo thêm thông tin tại: Phản đối tiêm chủng và những hệ quả

 

Bình luận
Tin mới
  • 26/11/2025

    Tầm soát loãng xương và những điều cần biết

    Loãng xương (osteoporosis) là một bệnh lý phổ biến thường gặp ở người cao tuổi gặp cả ở nam và nữ . Do đó, việc chuẩn đoán sớm, theo dõi và kiểm soát loãng xương là điều rất thiết, từ đó ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng.

  • 26/11/2025

    Có nên ăn trứng khi mắc hội chứng ruột kích thích không?

    Trứng là thực phẩm giàu dinh dưỡng, có lợi cho sức khỏe nhưng lại gây triệu chứng khó chịu cho nhiều người mắc hội chứng ruột kích thích.

  • 26/11/2025

    Những kiểm tra y tế không thể bỏ qua sau tuổi 50

    Tuổi 50 được xem là giai đoạn “chín muồi” của cuộc đời – nhưng cũng là thời điểm nhiều bệnh lý mạn tính bắt đầu xuất hiện. Nếu không chú ý chăm sóc, các vấn đề sức khỏe âm thầm tiến triển có thể làm giảm chất lượng cuộc sống và rút ngắn tuổi thọ.

  • 25/11/2025

    Trẻ bị cúm A: nên cho chăm sóc tại nhà hay tiếp tục đến trường?

    Mùa cúm đến, câu hỏi "Liệu con tôi bị cúm A có nên đi học không?" luôn là nỗi băn khoăn của nhiều phụ huynh. Quyết định này không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe và tốc độ hồi phục của trẻ mà còn tác động trực tiếp đến sức khỏe của cộng đồng trường học.

  • 25/11/2025

    Bệnh đa u các tuyến nội tiết loại 1 (MEN 1) là gì?

    Bệnh đa u các tuyến nội tiết loại 1 (MEN 1) là một bệnh lý hiếm gặp. Bệnh chủ yếu gây ra các khối u ở các tuyến sản xuất hormone hay còn được gọi là các tuyến nội tiết. Bệnh cũng có thể gây ra các khối u ở ruột non và dạ dày. Một tên gọi khác của bệnh là hội chứng Wermer. Cùng tìm hiểu về bệnh đa u các tuyến nội tiết loại 1 qua bài viết sau đây!

  • 24/11/2025

    Vì sao ăn kiêng mãi mà không giảm cân?

    Khi nói đến giảm cân, chúng ta thường tập trung vào chế độ ăn kiêng và tập thể dục. Tuy nhiên, có hai yếu tố sinh học mạnh mẽ thường bị bỏ qua nhưng lại là chìa khóa để đạt được và duy trì cân nặng lý tưởng: chất lượng giấc ngủ và mức độ stress.

  • 24/11/2025

    Chăm sóc đường hô hấp & phòng tránh viêm họng, cảm cúm hiệu quả

    Thời điểm giao mùa thu đông thời tiết thay đổi thất thường, nhiệt độ giảm và độ ẩm tăng, là điều kiện lý tưởng để các tác nhân gây bệnh đường hô hấp như virus và vi khuẩn phát triển mạnh. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp các biện pháp thiết thực để phòng bệnh hô hấp, giúp bạn và gia đình bảo vệ sức khỏe khi giao mùa.

  • 23/11/2025

    10 loại thực phẩm giúp giảm cholesterol bảo vệ tim

    Chế độ ăn uống là yếu tố quan trọng trong việc điều chỉnh mức cholesterol. Có một số loại thực phẩm chúng ta ăn hằng ngày có thể cải thiện mức cholesterol trong máu và giảm nguy cơ mắc bệnh tim.

Xem thêm