Bệnh bạch hầu có xu hướng “phục hưng” trở lại
Theo trang tin y học Mỹ Historyofvaccines (HOV), nếu dịch cúm Tây Ban Nha (Spanish Epidemic) xuất hiện vào giai đoạn 1650-1659 thì dịch The Plague Among Children (bệnh dịch hạch ở trẻ em) hay bệnh bạch hầu lại xuất hiện muộn hơn tới hơn 1 thế kỷ nữa 1725-1735. Mỹ ghi nhận 206.000 trường hợp mắc bệnh bạch hầu vào năm 1921, dẫn đến 15.520 trường hợp tử vong. Tỷ lệ tử vong của bạch hầu dao động 20% đối với những người dưới 5 tuổi và trên 40 tuổi, 5-10% cho nhóm từ 40 tuổi trở lên. Tỷ lệ tử vong trước thế kỷ 20 cao hơn so với hiện nay. Tại Anh và xứ Wales, bạch hầu là nguyên nhân thứ 3 gây tử vong ở trẻ em trong những năm 1930 ở thế kỷ trước.

Kể từ khi tiêm chủng hiệu quả, bắt đầu từ những năm 1920, tỷ lệ bệnh bạch hầu giảm đáng kể ở Mỹ và các quốc gia áp dụng chương trình tiêm chủng mở rộng. Từ năm 2004-2008, không có trường hợp mắc bệnh bạch hầu nào được ghi nhận tại Mỹ. Tuy nhiên, căn bệnh này vẫn tiếp tục tồn tại trên toàn cầu. Trong năm 2007, có 4.190 trường hợp mắc bệnh bạch hầu đã được báo cáo, nhưng con số thực còn lớn hơn nhiều.
Theo Trung tâm Phòng chống dịch bệnh Mỹ (CDC), bệnh bạch hầu hiện đã có mặt tại nhiều nước châu Á, Nam Thái Bình Dương, Trung Đông, Đông Âu, Haiti và CH Dominican. Kể từ năm 2016, bệnh bạch hầu đã xuất hiện tại Indonesia, Bangladesh, Myanmar, Việt Nam, Venezuela, Haiti, Nam Phi và Yemen. Cũng theo CDC, căn bệnh có chiều hướng xuất hiện tại các vùng nhiệt đới. Bệnh cũng được báo cáo xuất hiện ở khách du lịch mặc dù hiếm và ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi.
Trong số ra trung tuần tháng 7/2020, tạp chí Marketwatch (MWC) của Mỹ đã công bố báo cáo tổng quan về thị trường vắc-xin bạch hầu năm 2020. Theo dự báo, bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra, nó lây lan qua các giọt hô hấp và tiếp xúc gần gũi với cơ thể. Vắc-xin bạch hầu là một loại vắc-xin được sản xuất từ độc tố bạch hầu (một dạng độc tố không độc hại) chống lại Corynebacterium diphtheriae. Dự báo được dựa trên các thông tin liên quan đến các loại vắc-xin như DtaP, Tdap, Td và DT... của một số hãng bào chế vắc-xin hàng đầu thế giới như Sanofi Pasteur, GlaxoSmithKline, Bharat Biotech, Merck...

Liên quan đến bệnh bạch hầu, năm 1907, nhà sinh lý học người Đức Emil Adolf von Behring (1854-1917), người được trao giải Nobel Sinh lý và Y khoa năm 1901 đã có công khám phá ra kháng độc tố bệnh bạch hầu và những đóng góp của ông trong nghiên cứu về khả năng miễn dịch. Giải Nobel năm 1901 trao cho ông bởi ông đã triển khai liệu pháp huyết thanh (serotherapy) chống bệnh bạch hầu (làm chung với Emile Roux) và bệnh uốn ván. Theo HOV, năm 1907, Emil von Behring đã công bố một bài báo cho thấy một hỗn hợp độc tố bạch hầu và kháng độc tố tạo ra khả năng miễn dịch an toàn và lâu dài đối với bệnh bạch hầu ở người. Sự kết hợp giữa độc tố và kháng độc tố cần phải được cân bằng để cung cấp đủ độc tố nhằm khơi gợi khả năng miễn dịch hoạt động và lượng kháng độc tố thích hợp của cơ thể với mục đích ngăn chặn độc tố gây bệnh.
Để ngăn ngừa lây lan bệnh bạch hầu, CDC đưa ra khuyến cáo, tất cả khách du lịch nên được tiêm nhắc vắc-xin phòng bệnh bạch hầu trước khi khởi hành. Sau một loạt thuốc tiên phát và thuốc tăng cường thời thơ ấu và thanh thiếu niên, nên tiêm liều vắc-xin phòng bệnh bạch hầu trong khoảng thời gian 10 năm như Td (uốn ván - bạch hầu) hoặc Tdap (uốn ván - bạch hầu - ho gà) cho tất cả người lớn. Sự chủng ngừa tăng cường này đặc biệt quan trọng đối với những du khách sẽ đến sống hoặc làm việc với dân cư địa phương ở các quốc gia có bệnh bạch hầu đang bùng phát.
Tham khảo thêm thông tin bài viết: Khuyến cáo phòng chống bệnh bạch hầu của Bộ Y tế
Nghề giáo là một trong những nghề cao quý, đòi hỏi sự tận tâm và năng lượng lớn. Tuy nhiên, với áp lực công việc, lịch trình bận rộn và yêu cầu không ngừng đổi mới, giáo viên thường đối mặt với nguy cơ kiệt sức về cả thể chất lẫn tinh thần.
Thịt lợn ba chỉ cung cấp protein và vitamin nhóm B nhưng cũng chứa nhiều chất béo. Tìm hiểu lợi ích dinh dưỡng và cách ăn hợp lý để bảo vệ sức khỏe.
Khám sức khỏe định kỳ không chỉ là một hoạt động y tế mà còn là cách mỗi người thể hiện sự quan tâm đến bản thân và gia đình. Trong cuộc sống hiện đại, khi nhịp sống ngày càng hối hả, nhiều người thường bỏ qua việc kiểm tra sức khỏe đều đặn, chỉ tìm đến bác sĩ khi xuất hiện triệu chứng rõ ràng. Tuy nhiên, việc duy trì thói quen khám sức khỏe định kỳ có thể giúp phát hiện sớm các vấn đề sức khỏe, từ đó tăng cơ hội điều trị thành công và giảm thiểu chi phí y tế. Viện Y học ứng dụng Việt Nam sẽ làm rõ vai trò của khám sức khỏe định kỳ và những lợi ích thiết thực mà nó mang lại.
Sức khỏe sinh sản nữ giới có vai trò rất quan trọng đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Tuy nhiên, hiện nay nhiều phụ nữ Việt Nam vẫn chưa chú trọng chăm sóc sức khỏe sinh sản, dẫn đến hơn 70% trong số họ mắc các bệnh phụ khoa từ nhẹ đến nặng. Vì vậy, việc nhận biết sớm dấu hiệu bất thường, khám phụ khoa định kỳ và phòng ngừa là rất cần thiết để bảo vệ sức khỏe sinh sản.
Canxi là khoáng chất đóng vai trò quan trọng trong nhiều chức năng sống của cơ thể, không chỉ riêng hệ xương. Tuy nhiên không phải cứ ăn thực phẩm giàu canxi là đủ, chúng ta cần biết cách để cơ thể hấp thụ canxi tốt nhất.
Run là những chuyển động không tự chủ, nhanh, liên tục, qua lại, ở một phần hoặc toàn bộ cơ thể. Một số bệnh lý thần kinh, một số loại thuốc và tình trạng lo âu thường gây ra run.
Cá hồi là nguồn cung cấp dồi dào acid béo omega-3, một chất dinh dưỡng đặc biệt có lợi cho sức khỏe con người. Nên ăn cá hồi như thế nào và ăn vào thời điểm nào để tận dụng tối đa lợi ích của omega-3?
Cha mẹ và người chăm sóc thường muốn nhận biết các dấu hiệu của chứng tự kỷ để có thể nhận ra khi cần. Chứng tự kỷ không ảnh hưởng đến ngoại hình của trẻ, do đó việc chẩn đoán phụ thuộc vào việc xác định những thay đổi trong hành vi hoặc các mốc phát triển của trẻ, chẳng hạn như chậm phát triển ngôn ngữ và thoái triển các mốc phát triển.