Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Tăng nguy cơ mắc bệnh gút khi uống rượu bia

Bia và rượu mạnh làm tăng nguy cơ mắc bệnh gút, gây ra viêm khớp, theo một nghiên cứu năm 2014 tại Tạp chí Y học Mỹ rượu, bia cũng “đóng góp” vào nguy cơ khiến bệnh gút nặng hơn, làm gia tăng các cơn đau do gút.

Bệnh gút xảy ra khi axit uric dư thừa tích tụ xung quanh các khớp - thường ở ngón chân cái, nhưng cũng ở bàn chân, mắt cá chân, đầu gối, cổ tay và khuỷu tay - dẫn đến các cơn đau dữ dội, tấy đỏ và sưng. Nó ảnh hưởng đến hơn 8 triệu người lớn ở Mỹ và con số này đang ngày một tăng mạnh, chủ yếu do bệnh béo phì và các yếu tố lối sống khác.

Trong nghiên cứu năm 2014, 724 bệnh nhân gút hoàn thành bảng câu hỏi cách nhau vài tháng cũng như sau khi chịu đựng các cuộc tấn công bệnh gút về chế độ ăn uống, thuốc men, tập thể dục và số lượng của các loại đồ uống có cồn được tiêu thụ. Các nhà nghiên cứu đã xem xét tác hại tổng thể của rượu lên cơn đau gút cũng như những ảnh hưởng cá nhân của rượu vang, bia và rượu lên sức khỏe...

Kết quả cho thấy uống ít hơn 1 ly rượu, bia (hoặc một thức uống hỗn hợp) trong khoảng thời gian 24 giờ không làm tăng đáng kể nguy cơ các cuộc tấn công bệnh gút lặp lại. Nhưng tiêu thụ nhiều hơn 1-2 ly một ngày có thể làm tăng nguy cơ tấn công các cơn đau gút lên đến 36%. Với việc uống 2 - 4 ly, nguy cơ tăng lên 50% và nó tiếp tục tăng khi bạn tăng số lượng mình tiêu thụ rượu, bia.

Uống từ một đến hai ly rượu vang trong 24 giờ làm tăng nguy cơ chịu đựng các cuộc tấn công bệnh gút thường xuyên lên 138%; nói cách khác, nó đã tăng gấp đôi nguy cơ phải chịu các cơn đau nặng do gút gây ra. Và uống 2 - 4 cốc bia trong 24 giờ tăng nguy cơ rủi ro lên 75%.

Nghiên cứu được thực hiện bởi tạp chí Hiệp hội Y khoa Canada năm 1984 cũng cho thấy uống rượu thường xuyên có khả năng tăng nhanh chóng acid uric trong máu lên mức khoảng 40 mmol / L và lượng xanthines (1,5 mmol / L hypoxanthine và 5 mmol / L xanthine).

Không những thế rượu, bia còn là nguyên nhân gây ảnh hưởng xấu đến gan và thận - 2 cơ quan đóng vai trò rất quan trọng trong việc kiềm chế cũng như chữa bệnh gout.

Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng những kết quả này áp dụng đối với nam giới; kết quả cho phụ nữ ít rõ ràng hơn, chủ yếu là bởi vì quá ít phụ nữ trong nghiên cứu. Tác giả nghiên cứu Tuhina Neogi, MD, một giáo sư tại Đại học Y Boston nói: "Dựa trên nghiên cứu này, tôi sẽ khuyên bệnh nhân gút không uống bất kỳ một loại rượu nào vì chúng đều có thể gây ra một cuộc tấn công”.

Đối với nam giới được khuyên không nên uống quá 2 đơn vị rượu một ngày, đối với nữ không nên uống quá 1 đơn vị rượu 1 ngày. 1 đơn vị rượu tương đương khoảng 2/3 chai bia 550ml hoặc một lon bia 330ml 5% hoặc một cốc bia hơi 330ml hoặc một ly nhỏ 100ml rượu vang 13,5% hay tương đương một chén rượu mạnh 40 - 43%.

Ngoài việc hạn chế rượu bia, để phòng ngừa bệnh gút chúng ta nên: xây dựng một chế độ ăn bao gồm rau, ngũ cốc, protein thực vật như các loại hạt, các loại đậu và sữa ít béo. Hạn chế ăn carbohydrate tinh chế và thực phẩm chế biến. Tránh ăn thịt đỏ và nội tạng (gan, lưỡi, lách), động vật có vỏ như tôm và tôm hùm, đồ uống có đường. Duy trì một trọng lượng thích hợp cũng là một phần quan trọng trong việc quản lý bệnh gút. Không chỉ giảm cân giúp giảm acid uric trong máu, nó có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim hoặc khả năng đột quỵ, cả hai thường gặp ở những người mắc bệnh gút.
Kiều Việt - Theo Thanh Niên
Bình luận
Tin mới
  • 01/07/2025

    Sự thật về phương pháp thải độc bằng nước cốt chanh

    Nhiều người thực hiện thải độc cơ thể theo hướng dẫn truyền miệng và trên các nền tảng xã hội... và hiện nay đang dấy lên trào lưu thải độc bằng nước cốt chanh. Vậy sự thật về phương pháp thải độc này như thế nào?

  • 01/07/2025

    Cách sử dụng dầu dừa điều trị chàm

    Dầu dừa là một chất dưỡng ẩm tự nhiên. Nhiều người bị chàm nhận thấy dầu dừa có tác dụng làm dịu da và giảm các triệu chứng như khô và ngứa.

  • 01/07/2025

    Vai trò của chất béo trong chế độ ăn lành mạnh

    Chất béo thường bị mang tiếng xấu mỗi khi nói về chế độ dinh dưỡng vì cho rằng đó là nguyên nhân gây bệnh tim mạch, tiểu đường hay béo phì. Quan niệm cắt bỏ hoàn toàn chất béo khỏi bữa ăn đã từng phổ biến trong một số khuyến nghị dinh dưỡng. Thực tế, không phải tất cả các chất béo đều có hại.

  • 30/06/2025

    Dùng nghệ và mật ong cùng nhau có tăng lợi ích không?

    Mật ong với nghệ có thể được dùng cùng nhau trong chế độ ăn hằng ngày và thực phẩm bổ sung, vậy tác dụng của chúng có mạnh hơn khi kết hợp?

  • 30/06/2025

    Nhận biết và xử lý vết thương do côn trùng cắn khi đi du lịch

    Du lịch là dịp để khám phá thiên nhiên, trải nghiệm văn hóa và tận hưởng những khoảnh khắc thư giãn. Tuy nhiên, bên cạnh những điều thú vị, các chuyến đi đôi khi cũng tiềm ẩn những rủi ro nhỏ nhưng phiền toái, chẳng hạn như những vết thương do côn trùng cắn

  • 29/06/2025

    Sữa nguyên chất có dinh dưỡng, lợi ích và rủi ro gì?

    Sữa là nguồn dinh dưỡng quan trọng nên có trong chế độ ăn hằng ngày, trong đó sữa nguyên chất được đánh giá là nguồn cung cấp protein tốt. Tìm hiểu về dinh dưỡng, lợi ích và rủi ro khi tiêu thụ sữa nguyên chất.

  • 29/06/2025

    Làm thế nào để bỏ thói quen dùng điện thoại

    Một số ứng dụng có thể cho bạn biết bạn dành bao nhiêu thời gian cho điện thoại và bạn dành bao nhiêu thời gian cho từng ứng dụng. Ngay cả khi bạn không nghĩ rằng mình sử dụng điện thoại quá nhiều, việc nhìn thấy những con số thống kê tần suất sử dụng có thể khiến bạn muốn đặt điện thoại xuống.

  • 29/06/2025

    Điểm danh 5 loại dầu thực vật mang lại lợi ích sức khỏe tuyệt vời

    Chất béo thường bị hiểu lầm là “kẻ thù” của sức khỏe, đặc biệt là đối với tim mạch và cân nặng. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy không phải tất cả chất béo đều có hại. Ngược lại, một số loại chất béo tốt lại đóng vai trò thiết yếu trong việc duy trì năng lượng, hấp thụ vitamin và bảo vệ cơ thể khỏi viêm nhiễm. Trong đó, dầu ăn có nguồn gốc thực vật như dầu ô liu, dầu bơ, dầu mè... không chỉ mang lại hương vị phong phú cho món ăn mà còn cung cấp các acid béo có lợi cho tim mạch, não bộ và hệ miễn dịch.

Xem thêm