Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Bệnh tự miễn và thuốc điều trị

Hệ thống miễn dịch trong cơ thể người có chức năng bảo vệ, chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn và bệnh tật. Tuy nhiên, ở một số người hệ thống miễn dịch bị rối loạn hoạt động nên quay ra tấn công lại chính các tế bào của cơ thể, từ đó sinh ra các bệnh được gọi chung là bệnh lý tự miễn dịch.

Biểu hiện bệnh như thế nào?

Bệnh tự miễn là một nhóm bệnh khá phổ biến với khoảng 180 loại bệnh khác nhau, với tỉ lệ mắc bệnh chiếm tới 5-8% dân số. Xét theo diện tổn thương, bệnh tự miễn dịch được chia làm 2 nhóm chủ yếu là nhóm các bệnh tự miễn dịch hệ thống như lupus ban đỏ hệ thống, xơ cứng bì hệ thống... và nhóm các bệnh tự miễn dịch đặc hiệu cơ quan như viêm tuyến giáp tự miễn, viêm gan tự miễn...

Cơ chế gây bệnh tự miễn.

Do biểu hiện nhiều bệnh tự miễn dịch khá giống nhau nên việc chẩn đoán phân biệt các bệnh tự miễn dịch khá khó khăn. Các biểu hiện chính gặp hầu hết trong các bệnh tự miễn dịch là sốt nhẹ kéo dài, gầy sút cân, mệt mỏi, chán ăn, đau mình mẩy... Các biểu hiện khác của mỗi bệnh tự miễn dịch lại phụ thuộc vào vị trí cơ quan bị tổn thương.

Ví dụ, viêm đa khớp dạng thấp thì sưng đau và biến dạng các khớp; lupus ban đỏ hệ thống thì có ban cánh bướm, đau khớp...; xơ cứng bì thì với các biểu hiện trên da như dày cứng da, đau khớp... Các triệu chứng của bệnh thường tiến triển thành từng đợt cấp, xen giữa các đợt cấp nặng là các giai đoạn lui bệnh, nhưng không có nghĩa là bệnh khỏi.

Các thuốc điều trị bệnh

Do chưa rõ về nguyên nhân gây bệnh nên hiện nay các bệnh tự miễn dịch đều chưa có thuốc hay biện pháp nào điều trị dứt điểm. Mục tiêu chính của việc điều trị là làm chậm sự tiến triển của bệnh. Việc lựa chọn thuốc để điều trị bệnh này phải căn cứ vào loại bệnh và các biểu hiện lâm sàng. Có hai nhóm thuốc chính được dùng điều trị nhóm bệnh này là thuốc chống viêm và thuốc ức chế miễn dịch.

Các thuốc chống viêm như diclofenac, indomethacin, aspirin, ibuprofen và nhóm glucocorticoid có tác dụng giảm hầu hết triệu chứng của các bệnh tự miễn dịch.

Diclofenac, dẫn chất của acid phenylacetic là thuốc có tác dụng chống viêm, giảm đau và giảm sốt mạnh. Giống như các thuốc chống viêm không steroid khác, diclofenac gây hại đường tiêu hóa do giảm tổng hợp prostaglandin dẫn đến ức chế tạo mucin (chất có tác dụng bảo vệ đường tiêu hóa) giảm vai trò duy trì tưới máu thận. Các thuốc chống viêm không steroid ức chế tổng hợp prostaglandin nên có thể gây viêm thận kẽ, viêm cầu thận, hoại tử nhú và hội chứng thận hư đặc biệt ở những người bị bệnh thận hoặc suy tim mạn tính. Với những người bệnh này, các thuốc chống viêm không steroid có thể làm tăng suy thận cấp và suy tim cấp.

Indomethacin, dẫn xuất từ acid indolacetic. Giống như các thuốc chống viêm không steroid khác, indomethacin có tác dụng giảm đau, hạ sốt, chống viêm và ức chế kết tập tiểu cầu. Indomethacin thường gây nhiều tác dụng không mong muốn, đặc biệt là thời gian chảy máu kéo dài (nguy cơ chảy máu ổ loét ống tiêu hóa) và nguy cơ gây rối loạn chức năng thận (gây ứ nước).

Aspirin là thuốc giảm đau, hạ sốt, được chỉ định trong nhiều bệnh lý, trong đó có viêm khớp dạng thấp. Thuốc có tác dụng phụ gây ảnh hưởng tới đường tiêu hóa (xuất huyết dạ dày), hệ thần kinh (gây mệt mỏi) và cầm máu (gây chảy máu kéo dài).

Ibuprofen là thuốc dẫn xuất từ acid propionic. Giống như các thuốc chống viêm không steroid khác, ibuprofen có tác dụng giảm đau, hạ sốt và chống viêm. Thuốc được chỉ định trong các trường hợp đau và viêm từ nhẹ đến vừa trong một số bệnh như thống kinh, nhức đầu, thủ thuật về răng, cắt mép âm hộ. Dùng ibuprofen có thể giảm bớt liều thuốc chứa thuốc phiện để điều trị đau sau đại phẫu thuật hay cho người bệnh bị đau do ung thư; Viêm khớp dạng thấp, viêm khớp dạng thấp thiếu niên. Thuốc có một số tác dụng phụ thường gặp như mệt mỏi, trướng bụng, buồn nôn, hoa mắt chóng mặt, bồn chồn, nhức đầu, mẩn ngứa...

Glucocorticoid có tác dụng rõ rệt chống viêm, chống dị ứng và ức chế miễn dịch. Được chỉ định trong các trường hợp bệnh tự miễn dịch như viêm khớp dạng thấp, lupus ban đỏ toàn thân...

Dù thuốc đã được chứng minh có tác dụng trên nhiều loại bệnh, nhưng các tác dụng phụ do thuốc gây ra cũng không ít nguy hiểm. Các tác dụng phụ thường gặp là: kích thích hệ thần kinh gây mất ngủ, dễ bị kích động; tăng cảm giác ngon miệng, khó tiêu; rậm lông; yếu cơ, loãng xương; có thể gây bệnh đái tháo đường; tăng thêm tình trạng đau khớp; đục thủy tinh thể, bệnh glocôm, phù, tăng huyết áp; loét dạ dày...

Các thuốc ức chế miễn dịch như cyclophosphamide, cyclosporine A, mycophenolate mofetil, etanercept… có hiệu quả tốt với một số bệnh tự miễn dịch như lupus ban đỏ hệ thống, viêm đa khớp dạng thấp, viêm gan tự miễn...

Nhưng do các thuốc này đều có độc tính và giá thành tương đối cao nên chỉ được sử dụng trong các trường hợp không đáp ứng với các thuốc chống viêm. Trong các trường hợp có tổn thương dẫn đến rối loạn hoạt động chức năng của các cơ quan nội tạng, việc điều trị hỗ trợ để giảm triệu chứng là hết sức cần thiết. Trong đó, việc bổ sung insulin trong điều trị bệnh đái tháo đường, bổ sung hormon tuyến giáp trong viêm tuyến giáp tự miễn...

Gần đây, một số nghiên cứu nhằm điều trị triệt để các bệnh tự miễn dịch đang được nghiên cứu và có một số kết quả khả quan. Phương pháp điều trị bằng ghép tủy xương hoặc ghép tế bào gốc nhằm tái tạo lại hệ thống tự miễn dịch đã được áp dụng thành công với một số bệnh như lupus ban đỏ hệ thống, bệnh xơ cứng bì, bệnh xơ cứng rải rác, viêm đa khớp dạng thấp…

Mặc dù hiện nay chưa có phương pháp hữu hiệu để điều trị khỏi hoàn toàn bệnh tự miễn, nhưng bệnh lý này có thể được khống chế bằng cuộc sống tích cực như có một chế độ ăn cân đối hợp lý, đa dạng, tránh ăn nhiều dầu mỡ và bổ sung quá nhiều vitamin tổng hợp (vì các chất này có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của hệ miễn dịch) mà nên bổ sung vitamin bằng các loại rau quả.

Khi có dấu hiệu mắc bệnh, người bệnh nên đến các cơ sở y tế chuyên khoa để được khám và điều trị.

ThS. Nguyễn Thu Hiền - Theo SKĐS
Bình luận
Tin mới
  • 17/08/2025

    8 nguyên nhân gây ra tình trạng răng khấp khểnh

    Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.

  • 16/08/2025

    Tác động của mạng xã hội đến sức khỏe tinh thần giới trẻ

    Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.

  • 16/08/2025

    Tầm quan trọng của việc tiêm chủng cho trẻ em và người lớn

    Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.

  • 15/08/2025

    Ăn bao nhiêu rau quả mỗi ngày là đủ?

    Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?

  • 15/08/2025

    Người cao tuổi vẫn có thể bị suy dinh dưỡng?

    Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.

  • 15/08/2025

    Báo cáo trường hợp: Sốc nhiễm trùng kèm viêm da, cân cơ hoại tử do nhiễm Vibrio vulnificus qua vết thương ở da

    Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.

  • 15/08/2025

    Cảnh báo: Vi khuẩn “ăn thịt người” Vibrio vulnificus đang gia tăng ở Mỹ. Khuyến cáo cho Việt Nam

    Các chuyên gia y tế cảnh báo sự gia tăng các ca nhiễm vi khuẩn ăn thịt người Vibrio vulnificus tại Mỹ, đặc biệt ở các bang ven biển vùng Vịnh Mexico và Đông Nam Hoa Kỳ như Florida và Louisiana. Mặc dù vẫn được xem là bệnh hiếm gặp, nhưng mức độ nghiêm trọng và xu hướng tăng của các ca nhiễm cho thấy dấu hiệu bất thường và người dân không được chủ quan về nguy cơ lây nhiễm.

  • 14/08/2025

    Ngày nào cũng ăn trứng có được không?

    Trứng là một phần của chế độ ăn giàu dinh dưỡng có thể hỗ trợ sức khỏe tổng thể, bao gồm cả hệ tim mạch và mắt. Vậy, có nên ăn trứng mỗi ngày không?

Xem thêm