Hen phế quản (hen) là một bệnh mạn tính. Khi mang thai, hen có thể ảnh hưởng tới sức khỏe của bạn và bé. Hãy tìm hiểu những điều bạn cần biết về hen và thai nghén.
Hen cần được quan tâm trong suốt thời kì thai nghén
Nếu bạn đang điều trị có hiệu quả hay kiểm soát tốt hen trong suốt thời kì mang thai, sẽ có rất ít hoặc không có những biến chứng liên quan đến hen.
Tuy nhiên, hen nặng hoặc không được kiểm soát tốt trong khi mang thai có thể làm tăng những nguy cơ:
Hen được được chia làm 4 mức từ nhẹ nhất đến nặng nhất. Mang thai có thể làm hen nặng thêm, các nghiên cứu chỉ ra rằng mức độ nặng của hen trong thời kì mang thai có liên quan trực tiếp đến mức độ hen trước khi có thai. Những triệu chứng của hen rất có thể xấu đi với hen mức độ nặng.
Nếu hen tiến triển tốt hơn, các triệu chứng có thể cải thiện dần dần trong quá trình mang thai. Nếu hen nặng lên, sự gia tăng các triệu chứng biểu hiện rõ nhất từ tuần thai thứ 29 đến 36.
Có thể một số phụ nữ có các dấu hiệu và triệu chứng của hen nặng hơn ở những tháng cuối thai kì vì họ dừng thuốc sau khi có thai. Bất kể những thay đổi nào về thói quen dùng thuốc hàng ngày của bạn cũng làm ảnh hưởng đến mức độ của hen.
Sử dụng thuốc chữa hen trong khi mang thai có an toàn không?
Nếu bạn cần sử dụng thuốc để kiểm soát triệu chứng của hen trong thai kỳ, bác sỹ sẽ kê loại thuốc an toàn nhất với liều lượng phù hợp nhất với bạn. Hãy uống thuốc theo đơn. Không tự ý dừng thuốc hoặc tự thay đổi liều. Dựa vào các loại thuốc đang dùng và các triệu chứng của bạn, bác sĩ có thể kiểm soát hen trong thời kì trước sinh.
Bạn sẽ cần có những xét nghiệm đặc biệt nào?
Bác sỹ cũng có thể yêu cầu bạn chú ý đến những cử động của thai nhi để ónhững can thiệp kịp thời.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Xử trí kịp thời các cơn hen cấp
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.