Tiền sản giật là biến chứng phổ biến và nặng nhất trong thai kì, ảnh hưởng tới khoảng 5 đến 10% những phụ nữ mang thai ở Úc. Từ 1 đến 2% số trường hợp tiền sản giật nặng đến mức có thể đe dọa tính mạng của cả mẹ và con.
Cứ 5 ca đẻ thường sẽ có 1 ca tiền sản giật, tỷ lệ này khi đẻ mổ là 1 trên 6. Cơ chế của tình trạng này vẫn chưa được biết rõ, nhưng những yếu tố về gen và nhau thai có vẻ sẽ đóng những vai trò quan trọng. Vì một lí do nào đó, tiền sản giật thường phổ biến ở lần mang thai đầu hơn so với những lần mang thai sau. Huyết áp của người mẹ thường trở lại bình thường sau khi em bé được sinh ra và nhau thai đã được lấy ra.
Ảnh hưởng lên người mẹ
Tiền sản giật có thể phát triển ở bất kì thời điểm nào trong nửa sau của thai kì, nhưng thường phát triển trong những giai đoạn cuối của thời kì mang thai. Tiền sản giật thường gây huyết áp cao và protein niệu. Nó cũng có rất nhiều ảnh hưởng khác và thường liên quan đến hầu hết các cơ quan nội tạng. Ở dạng nặng nhất, nó có thể gây nên các vấn đề về thận, gan, não và máu (đặc biệt là hệ thống đông máu). Rất khó để dự đoán được ai sẽ gặp phải tiền sản giật, nhưng một số phụ nữ sẽ có nguy cơ cao hơn so với những người khác, bao gồm:
Rối loạn này có thể không có triệu chứng
Trái với những suy nghĩ phổ biến của mọi người, không có bằng chứng nào cho thấy tiền sản giật gây ra bởi stress cảm xúc, làm việc quá nhiều hoặc không nghỉ ngơi đầy đủ. Tiền sản giật ban đầu không có các triệu chứng rõ ràng và hầu hết những người phụ nữ đều cảm thấy bình thường. Đó là lý do vì sao việc đi khám trước sinh đều đặn là rất quan trọng. Nghi ngờ mắc tiền sản giật nếu có:
Những dấu hiệu nghiêm trọng
Nếu không được điều trị, tiền sản giật có thể dẫn đến động kinh, suy thận, suy gan, cục máu đông hoặc tử vong. Một số dấu hiệu khác của rối loạn này bao gồm:
Ảnh hưởng lên em bé
Khoảng 5 đến 10 % số ca sinh non ở Úc là do tiền sản giật và các biến chứng liên quan đến nó. Trong tử cung, em bé được nuôi dưỡng bởi một cơ quan nội tạng quan trọng khi mang thai, được gọi là nhau thai. Nhau thai sẽ cho phép oxi và các chất dinh dưỡng truyền từ máu của mẹ sang em bé và các chất thải (như CO2) sẽ được truyền từ máu của em bé sang mẹ.
Trong tiền sản giật, dòng máu chảy trong nhau thai sẽ trở nên chậm hơn. Trong những trường hợp nặng, em bé có thể dần dần bị thiếu oxi và các chất dinh dưỡng, ảnh hưởng đến sự phát triển. Sự hạn chế tăng trưởng này sẽ đe dọa đến tính mạng em bé và sau đó dẫn đến việc phải sinh non. Một biến chứng khác của tiền sản giật là nhau thai bong non, nghĩa là nhau thai sẽ tách ra khỏi tử cung khiến người phụ nữ bị chảy máu âm đạo và đau bụng. Biến chứng này cần được cấp cứu khẩn cấp.
Chẩn đoán và điều trị
Một số triệu chứng của tiền sản giật, chẳng hạn như giữ nước, cũng là những dấu hiệu điển hình bình thường khi mang thai. Điều này có nghĩa là một số phụ nữ có thể bỏ qua các cảnh báo đầu tiên của tiền sản giật. Vì vậy, kiểm tra trước sinh đều đặn là rất quan trọng. Hiện nay, vẫn chưa có cách chữa trị tiền sản giật. Đôi khi thuốc sẽ cần để kiểm soát huyết áp và phòng chống động kinh, nghỉ ngơi cũng có thể có lợi. Cách điều trị duy nhất là đưa em bé và nhau thai ra ngoài.
Các nghiên cứu gần đây
Việc sản phụ tự vong là rất hiếm. Tuy nhiên, tiền sản giật và các biến chứng liên quan đến nó chịu trách nhiệm khoảng 15% số ca tử vong ở sản phụ. Các nghiên cứu y học đang tìm kiếm những cách thức để dự đoán tiền sản giật nhằm giảm thiểu hơn nữa những nguy hiểm đối với các bà mẹ có nguy cơ cao và con của họ. Vì tiền sản giật thường di truyền trong gia đình, các nhà khoa học gần đây đang tìm kiếm những gen đặc trưng có thể dẫn đến tình trạng này. Nếu gen này được khám phá ra thì người ta mong rằng sẽ có được những bài kiểm tra trước khi mang thai đối với tiền sản giật.
Tìm kiếm sự giúp đỡ ở đâu
Những điều cần nhớ
Loãng xương là tình trạng suy giảm nghiêm trọng lượng khoáng chất trong xương, làm thay đổi cấu trúc và giảm độ chắc khỏe của xương. Trong đó, phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất mắc bệnh, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường đối với sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về loãng xương ở phụ nữ mãn kinh nhé!
Thịt lợn nọng ngon nhưng do hàm lượng chất béo bão hòa cao, một số nhóm người nên đặc biệt hạn chế tiêu thụ thịt nọng.
Nang tóc của bạn có các tế bào sắc tố tạo ra melanin, một chất hóa học tạo nên màu tóc của bạn. Khi bạn già đi, các tế bào này bắt đầu chết. Không có sắc tố, các sợi tóc mới mọc ra nhạt hơn và có nhiều sắc thái khác nhau của màu xám, bạc và cuối cùng là màu trắng. Khi nang tóc ngừng tạo ra melanin, nó sẽ không tạo ra các sợi tóc màu nữa.
Việc sử dụng 'đường ăn kiêng' để giảm cân đang là một xu hướng phổ biến nhưng nó vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Vậy đường ăn kiêng có tác dụng gì và có an toàn để giảm cân không?
Vào những tháng cuối năm thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ giảm kèm theo những cơn mưa là cả một thách thức với hệ hô hấp, khó chịu với mũi và xoang. Sự kết hợp giữa không khí khô và thay đổi nhiệt độ này ảnh hưởng đến hoạt động bài tiết chất nhầy của mũi và xoang để bảo vệ hệ hô hấp và lọc không khí; có thể dẫn đến các dấu hiệu nghẹt mũi, áp lực và khó chịu. Hiểu được tác động theo mùa này đối với sức khỏe xoang giúp giải thích tại sao nhiều người gặp phải các vấn đề liên quan đến xoang nhiều hơn trong những tháng mùa đông và chỉ ra những cách chúng ta có thể bảo vệ hệ hô hấp tốt hơn trong mùa lạnh.
Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.
Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.
Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.