Những tưởng, chải răng là một việc làm hết sức đơn giản, song không phải ai trong chúng ta cũng biết cách chải răng đúng cách. Nếu bạn là một trong những người đó, hãy tham khảo các lời khuyên dưới đây:
Chọn bàn chải phù hợp
Bạn cũng nên biết về lông bàn chải của bạn. Nếu quá cứng, nó có thể làm đau lợi của bạn. Lông bàn chải mềm là tốt nhất.
Còn về vấn đề nên sử dụng bàn chải điện hay bàn chải sử dụng bằng tay thì Michael Sesemann nói “đó là tùy thuộc vào sở thích cá nhân”. Bàn chải điện có thể làm việc dễ dàng hơn, đặc biệt là nếu bạn bị viêm khớp hay những khó khăn khi sử dụng bàn tay, cánh tay hoặc là vai.
Bạn nên đánh răng bao lâu?
Bạn chải răng bao nhiêu là đủ? Theo khuyến cáo là 2 lần/ngày nhưng theo Sesemann thì 3 lần/ ngày là tốt nhất.
Mỗi lần chải răng nên kéo dài tối thiểu 2 phút. Sesemann nói hầu hết chúng ta chải răng quá ngắn. Ông cũng gợi ý bạn nên chia miệng ra làm 4 phần và dành 30 giây để chải mỗi phần.
Một số bàn chải điện đã được cài đặt thời gian chải răng và bạn có thể điều chỉnh để có thời gian phù hợp nhất.
Không nên đánh răng quá nhiều
Chải răng nhiều hơn 3 lần/ ngày có thể không phải là một ý tưởng hay ho, Sesemann nói. Bởi vì đánh răng quá nhiều có thể làm mòn men răng của bạn và gây tổn hại lợi.
Ông cũng nói “không nên chải răng quá mạnh, hãy nhẹ nhàng”.
Nếu bạn sử dụng bàn chải điện, “bạn hãy để các lông bàn chải tự làm việc và bạn chỉ cần điều chỉnh hướng của chúng thôi”, Prince nói. Hãy nhẹ nhàng, không cần phải mất nhiều sức lực để loại bỏ các mảng bám.
Chải răng đúng kĩ thuật
Hãy chải cả mặt trong, mặt ngoài, mặt nhai của răng và lưỡi.
Đừng quên những khu vực có tới gần vì nếu bạn chải không kĩ, mảng bám có thể hình thành.
Bắt đầu chải răng từ các vị trí khác nhau
Có phải bạn luôn bắt chải răng từ những vị trí giống nhau? Các nha sĩ nói hầu hết chúng ta đều như vậy.
Price nói “hãy bắt đầu chải răng từ các vị trí khác nhau để bạn không trở nên lười biếng.” Thời gian để bạn chải hết khu vực trong miệng có thể làm bạn cảm thấy nhàm chán.
Sesemann nói “hãy chú ý bạn đang hướng bàn chải đi đâu và nơi mà bạn đã chải, và chải hết tất cả các bề mặt răng.
Lựa chọn kem đánh răng
Có thể loại kem đánh răng bạn đang sử dụng có nhiều chất tẩy trắng hoặc chất loại bỏ mảng bám mạnh. Sự gia tăng các thành phần làm trắng có thể gây tổn hại đến cấu trúc của răng.
Hãy quay trở lại với các loại kem đánh răng có chứa Flo. Nếu bạn muốn có một hàm răng trắng, bạn có thể thay đổi các loại kem làm trắng răng một cách thường xuyên.
Hạn chế những đồ chua
Theo Sesemann, nước tăng lực, soda, những kẹo chua, thậm chí những đồ ăn tốt cho sức khỏe như nước cam, nước táo hay là cà phê có thể có acid gây mòn men răng. Nếu bạn đã sử dụng những thực phẩm trên, hãy chờ nửa tiếng trước khi đánh răng để nước bọt của bạn có thời gian khôi phục men răng.
Theo Sesemann, những tác động cơ học khi chải răng có thể làm mòn men răng.
Bảo quản bàn chải
Hầu hết chúng ta thường để bàn chải ở trong nhà tắm, đó không phải là nơi sạch nhất trong nhà.
Để giữ vệ sinh, hãy để chúng ở một ngăn chứa riêng. Nếu bạn để chúng ở trên kệ, chúng có thể tiếp xúc với vi khuẩn ở bồn cầu hay bồn rửa mặt của bạn. Và không nên để cho hai bàn chải chạm vào nhau nếu chúng được cất ở cùng một nơi.
Giữ bàn chải khô ráo. Nếu bàn chải của bạn ẩm ướt sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển.
Thay bàn chải thường xuyên
Bạn nên sử dụng bàn chải bao lâu? Bạn hãy thay bàn chải mới 3-4 tháng/ lần.
Bạn có thể quan sát bằng mắt những sợi lông trên bàn chải của bạn có còn mềm mại không hay bắt đầu bị cong sang một bên.
Nếu bạn không biết nên lựa chọn loại bàn chải nào, hãy hỏi nha sĩ để biết được loại nào tốt nhất cho bạn.
Tham khảo thêm bài viết: Những sự thật đáng sợ về bàn chải đánh răng
Loãng xương là tình trạng suy giảm nghiêm trọng lượng khoáng chất trong xương, làm thay đổi cấu trúc và giảm độ chắc khỏe của xương. Trong đó, phụ nữ ở giai đoạn mãn kinh là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất mắc bệnh, dẫn đến nhiều hệ lụy khó lường đối với sức khỏe. Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về loãng xương ở phụ nữ mãn kinh nhé!
Thịt lợn nọng ngon nhưng do hàm lượng chất béo bão hòa cao, một số nhóm người nên đặc biệt hạn chế tiêu thụ thịt nọng.
Nang tóc của bạn có các tế bào sắc tố tạo ra melanin, một chất hóa học tạo nên màu tóc của bạn. Khi bạn già đi, các tế bào này bắt đầu chết. Không có sắc tố, các sợi tóc mới mọc ra nhạt hơn và có nhiều sắc thái khác nhau của màu xám, bạc và cuối cùng là màu trắng. Khi nang tóc ngừng tạo ra melanin, nó sẽ không tạo ra các sợi tóc màu nữa.
Việc sử dụng 'đường ăn kiêng' để giảm cân đang là một xu hướng phổ biến nhưng nó vẫn còn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Vậy đường ăn kiêng có tác dụng gì và có an toàn để giảm cân không?
Vào những tháng cuối năm thời tiết chuyển lạnh, nhiệt độ giảm kèm theo những cơn mưa là cả một thách thức với hệ hô hấp, khó chịu với mũi và xoang. Sự kết hợp giữa không khí khô và thay đổi nhiệt độ này ảnh hưởng đến hoạt động bài tiết chất nhầy của mũi và xoang để bảo vệ hệ hô hấp và lọc không khí; có thể dẫn đến các dấu hiệu nghẹt mũi, áp lực và khó chịu. Hiểu được tác động theo mùa này đối với sức khỏe xoang giúp giải thích tại sao nhiều người gặp phải các vấn đề liên quan đến xoang nhiều hơn trong những tháng mùa đông và chỉ ra những cách chúng ta có thể bảo vệ hệ hô hấp tốt hơn trong mùa lạnh.
Eswatini hiện đang là đất nước có tỉ lệ nhiễm HIV cao nhất thế giới. Eswatini từ lâu đã phải đối mặt với gánh nặng HIV cực kỳ lớn. Khoảng 27% người trưởng thành của quốc gia này sống chung với HIV – mức cao nhất thế giới. Dù đã đạt nhiều tiến bộ trong điều trị antiretroviral (ARV), số ca nhiễm HIV mới vẫn duy trì ở mức đáng lo ngại, đặc biệt trong nhóm phụ nữ trẻ và thanh niên.
Tuy chỉ là một loại rau dại mọc phổ biến nhưng rau càng cua chứa đựng những giá trị dinh dưỡng và dược liệu đáng kinh ngạc, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe con người.
Thời tiết lạnh có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ do một số yếu tố thuận lợi, bao gồm co mạch máu, tăng huyết áp và tăng độ nhớt của máu. Khi nhiệt độ giảm, cơ thể cố gắng giữ nhiệt bằng cách co các mạch máu, làm tăng huyết áp và có thể dẫn đến hình thành cục máu đông. Những người có nguy cơ cao bao gồm người cao tuổi, người mắc bệnh tim mạch, huyết áp cao, tiểu đường, và những người có lối sống ít vận động.