Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Báo cáo khoa học: mức độ an toàn và hiệu quả của vaccine Sputnik V của Nga

Ngày 23/3, Bộ Y tế đã phê duyệt có điều kiện vaccine cho nhu cầu cấp bách trong phòng chống dịch COVID-19 đối với vaccine Sputnik V của Nga.

Tại Quyết định số 1654/QĐ-BYT do Thứ trưởng Bộ Y tế Trương Quốc Cường ký ban hành phê duyệt có điều kiện đối với vaccine Gam-COVID-Vac (tên khác là Sputnik V) của Nga cho nhu cầu cấp bách trong phòng, chống dịch COVID-19 theo quy định tại Điều 67 Nghị định số 54/2017/NĐ-CP ngày 8/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật dược (Nghị định 54/2017/NĐ-CP). Như vậy đây là vaccine phòng COVID-19 thứ 2 được Việt Nam phê duyệt đến nay. Vậy vaccine Sputnik V có hiệu quả và tính an toàn như thế nào?

Nghiên cứu chứng minh tính an toàn và hiệu quả

Theo bài báo cáo khoa học được đăng tải trên tạp chí The Lancet, Denis Logunov và cộng sự đã báo cáo kết quả tạm thời từ thử nghiệm giai đoạn 3 của vaccine Sputnik V COVID-19. Kết quả thử nghiệm cho thấy tác dụng bảo vệ mạnh mẽ nhất quán trên tất cả các nhóm tuổi tham gia. Còn được gọi với tên Gam-COVID-Vac, vaccine sử dụng phương pháp tiếp cận adenovirus tái tổ hợp dị loại – hạt virus Adeno typ huyết thanh 26 (Ad26) và typ 5 (Ad5) của người tái tổ hợp mang gen mã hóa protein S của SARS-CoV-2. Việc sử dụng hai loại huyết thanh khác nhau, được thực hiện cách nhau 21 ngày nhằm mục đích khắc phục bất kỳ khả năng miễn dịch adenovirus nào đã tồn tại từ trước trong quần thể được tiêm chủng. Trong số các vaccine COVID-19 chính đang được phát triển cho đến nay, chỉ có Gam-COVID-Vac sử dụng phương pháp này; những loại khác, chẳng hạn như vaccine Oxford-AstraZeneca sử dụng cùng một chất liệu cho cả hai liều. Vaccine trước đó cho bệnh do virus Ebola cũng được phát triển tại Trung tâm Nghiên cứu Dịch tễ và Vi sinh Quốc gia Gamaleya (Moscow, Nga) cũng có bản chất tương tự với việc sử dụng virus Ad5 và vesicular stomatitis virus mang mầm bệnh, và nguyên tắc chung với hai vectơ khác nhau đã được sử dụng rộng rãi trong thực nghiệm.

Phương pháp sử dụng adenovirus tái tổ hợp cũng tương tự với vaccine Oxford – AstraZeneca, sử dụng một loại adenovirus của tinh tinh (ChAdOx); vaccine của Johnson & Johnson chỉ sử dụng Ad26 (Dự kiến ​​sẽ sớm có kết quả chi tiết) và vaccine CanSinoBIO – Viện Công nghệ sinh học Bắc Kinh (Ad5) có giai đoạn 3 thử nghiệm bắt đầu vào tháng 9 năm 2020. Các virus mang mầm bệnh được sửa đổi và không thể gây lây nhiễm. Sau đó, chúng xâm nhập vào tế bào và biểu hiện protein đột biến, và dừng lại (vì chúng không thể tiếp tục vòng đời của virus bình thường).

Các tế bào nhiễm vaccine cuối cùng sẽ bị tiêu diệt bởi chính khả năng miễn dịch mà chúng được thiết kế để tạo ra. Các adenovirus tái tổ hợp đã được sử dụng rộng rãi làm vectơ vaccine vì chúng có thể chứa tải lượng di truyền lớn và – và mặc dù không thể tái tạo – nhưng chúng kích hoạt các cảm biến miễn dịch bẩm sinh đủ để đảm bảo sự tham gia mạnh mẽ của hệ thống miễn dịch cơ thể. Do đó, những người được tiêm vaccine không cần thuốc bổ trợ và có thể tạo miễn dịch chỉ sau một liều tiêm duy nhất. Độ bền vật lý của vaccine được cho là có thể cho phép bảo quản ở nhiệt độ khoảng –18°C, mang đến tính khả thi đối với nhiều chuỗi cung ứng. Nhược điểm của vaccine dựa trên adenovirus tái tổ hợp với liều lượng lớn, thường là 1010 hoặc 1011 hạt virus. Do vậy, cần nhu cầu lớn về sản xuất và định lượng cần thiết để triển khai trên quy mô toàn cầu.

Ảnh: The Lancet

Tính an toàn

Theo dữ liệu vaccine Sputnik V được công bố trong giai đoạn nửa năm trước 2020 (công bố hồi tháng 9 năm 2020) cho thấy, kết quả thử nghiệm vaccine là an toàn và đầy hứa hẹn, mang đến các dấu hiệu đáp ứng miễn dịch ở mức phù hợp với khả năng bảo vệ. Người được tiêm chủng tạo ra các phản ứng kháng thể mạnh mẽ với vaccine, bao gồm các kháng thể trung hòa, tỷ lệ của tổng số globulin miễn dịch ức chế virus liên kết với thụ thể của nó. Các bằng chứng cũng cho thấy phản ứng của tế bào T phù hợp với phản ứng miễn dịch.

Dữ liệu từ báo cáo tạm thời trong giai đoạn 3 trình bày các kết quả cho hơn 20.000 người tham gia, 75% trong được chỉ định tiêm vaccine và theo dõi các phản ứng bất lợi và nhiễm trùng. Đối tượng tham gia từ 18 tuổi trở lên, khoảng 60% là nam và hầu hết đều là người da trắng. Các bệnh đi kèm - một nguy cơ đã biết đối với mức độ nghiêm trọng của COVID-19 – gặp phải ở khoảng ¼ số người tham gia thử nghiệm. Một số chỉ số kết quả khác bao gồm:

  • 62 (1-3%) trong số 4902 trường trong nhóm đối chứng và 16 (0-1%) trong số 14.964 đối tượng trong nhóm tiêm vaccine đã xác nhận nhiễm SARS-CoV-2 từ ngày 21 sau khi tiêm liều vaccine đầu tiên.
  • Biểu đồ phân tích theo thời gian về tỷ lệ mắc bệnh ở hai nhóm cho thấy khả năng miễn dịch cần thiết để ngăn ngừa bệnh xuất hiện trong vòng 18 ngày kể từ liều tiêm đầu tiên. Sự bảo vệ đó được thất trên tất cả các nhóm tuổi, bao gồm cả những người trên 60 tuổi.
  • Các trường hợp được tiêm chủng nhưng đồng thời cũng bị nhiễm bệnh cho thấy mức độ nghiêm trọng của bệnh giảm khi khả năng miễn dịch được phát triển.
  • Ba trường hợp tử vong đã xảy ra trong nhóm tiêm vaccine ở những người có nhiều bệnh nền đi kèm, và tử vong được coi là không liên quan đến vaccine.
  • Không có tác dụng phụ nghiêm trọng liên quan đến vaccine được ghi nhận, nhưng các tác dụng phụ nghiêm trọng không liên quan đến vaccine đã được báo cáo ở 45 người tham gia trong nhóm được tiêm; và ở 23 người tham gia từ nhóm đối chứng.
  • Hiệu quả của vaccine – dựa trên số trường hợp COVID-19 được xác nhận sau 21 ngày sau liều đầu tiên được báo cáo là 91,6% (95% CI 85,6–95,2), và điều này được đề xuất để giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh sau một liều tiêm duy nhất, khuyến khích cho các chiến lược tiết kiệm vaccine trong thời điểm hiện tại.

Tham khảo thêm thông tin tại: So sánh bản chất 3 loại vaccine Covid-19 của Pfizer-BioNTech, Moderna và Johnson&Johnson

Bình luận
Tin mới
  • 27/04/2024

    Vì sao người béo phì dễ bị ợ nóng hơn?

    Béo phì gắn liền với những bệnh liên quan đến hệ tiêu hóa, trong đó có chứng ợ nóng. Tìm hiểu nguyên nhân cân nặng quá mức làm tăng nguy cơ trào ngược dạ dày thực quản cũng như cách để kiểm soát tại nhà.

  • 27/04/2024

    Mỳ chính (bột ngọt) có an toàn cho trẻ em và phụ nữ mang thai không?

    Bằng chứng khoa học cho thấy bột ngọt (monosodium glutamate) an toàn cho mọi người ở mọi lứa tuổi, kể cả trẻ em, trẻ sơ sinh và phụ nữ mang thai.

  • 27/04/2024

    Chế độ ăn cho người bệnh rối loạn tiền đình

    Chế độ ăn uống hàng ngày là một công cụ mạnh mẽ trong việc duy trì sức khỏe của hệ thống tiền đình và giảm các triệu chứng liên quan đến rối loạn tiền đình.

  • 27/04/2024

    Bí quyết có 1 thai kỳ khỏe mạnh - Chuẩn bị ngay từ trước khi thụ thai

    Chăm sóc sức khỏe trước khi mang thai là một bước quan trọng để đảm bảo một thai kỳ khỏe mạnh. Nhiều phụ nữ tập trung vào việc bổ sung dinh dưỡng và thay đổi lối sống ngay khi biết mình có thai. Tuy nhiên, các bước chuẩn bị sẽ hiệu quả hơn nếu được thực hiện trước khi thụ thai ít nhất từ 3-6 tháng.

  • 26/04/2024

    Nguyên nhân gây ngứa đa xơ cứng và cách điều trị

    Các rối loạn về giác quan, bao gồm cả cảm giác ngứa, có thể xảy ra trong bệnh đa xơ cứng. Đôi khi, những cảm giác này có thể là dấu hiệu sớm của bệnh.

  • 26/04/2024

    5 loại thực phẩm không nên ăn cùng chuối

    Mặc dù chuối là một loại trái cây giàu dinh dưỡng nhưng theo y học cổ truyền Ấn Độ, sự kết hợp chuối và một số thực phẩm sẽ gây khó chịu cho hệ tiêu hóa đối với một nhóm người.

  • 26/04/2024

    Chế độ ăn cho người bị nhiễm vi khuẩn HP

    Cùng với tuân thủ điều trị theo chỉ định của bác sĩ, chế độ ăn uống đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa loét dạ dày do nhiễm vi khuẩn HP.

  • 26/04/2024

    Tại sao cần tiêm vaccine phòng uốn ván?

    Uốn ván là một căn bệnh nghiêm trọng, ảnh hưởng đến cơ và dây thần kinh của cơ thể nhưng có thể phòng ngừa được. Nó thường gây co thắt, tạo cảm giác đau đớn và cứng cơ hàm. Uốn ván là một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng có thể đe dọa tính mạng và dễ dàng phòng ngừa bằng tiêm chủng. Nguyên nhân là do độc tố được tạo ra bởi bào tử của vi khuẩn Clostridium tetani. Những vi khuẩn này sống trong môi trường, bao gồm cả trong đất, bụi và phân động vật.

Xem thêm