Cổ nhân cho rằng “vô tích bất thành cam” hay “tích thị cam chi mẫu” (ở một phạm vi nào đó tương ứng với bệnh suy dinh dưỡng trẻ em của Tây y); hai là chứng cam có tổn thương viêm loét, hoại tử, xuất tiết, xuất huyết da, niêm mạc mũi, miệng, lợi...ví như nha cam tẩu mã ở miệng, cam ám mục ở mắt. Cả 2 loại có thể xuất hiện riêng rẽ hoặc đồng thời trên cùng cơ thể của 1 bệnh nhi.
Mẫu thuốc cam rởm do Trung tâm Chống độc (Bệnh viện Bạch Mai) lưu giữ. Ảnh: Ngọc Quân
Tùy theo tính chất, mức độ, thể bệnh và kinh nghiệm của mỗi thầy thuốc, người ta thường dùng thuốc cam dưới 2 hình thức: thuốc uống trong (sắc uống, hoàn viên, tán thành bột mịn...) và thuốc dùng ngoài (bôi, xông, xoa, ngâm, đắp, ngậm, rửa...). Cam tích thường dùng thuốc uống trong, cam chứng ở da, niêm mạc thường dùng thuốc bên ngoài, cũng có trường hợp phải kết hợp cả hai phương thức.
Thuốc cam uống trong thường được xây dựng dựa trên sự gia giảm các bài thuốc cổ phương như Bình vị tán, Tiêu thực hoàn, Sâm linh bạch truật tán, Tiền thị khải tỳ tán, Tiêu cam lý tỳ thang, Lô hội phì nhi hoàn, Lô hội tiêu cam ẩm, Tập thành hoàn, Tứ vị phì nhi hoàn, Lương cách tán, Nhị thánh hoàn, Mã nha tiêu hoàn, Tam hòa hoàn, Sử quân tử tán, tiêu cam tán... hoặc các phương thuốc được cấu tạo theo nguyên tắc “đối pháp lập phương” (tân phương) hoặc sử dụng các kinh nghiệm dân gian, các phương thuốc gia truyền như thuốc cam Tùng Lộc, thuốc cam Lam Kiều, thuốc cam bổ tỳ Hàng Bạc, viên Cam còm, viên Phì nhi cam tích... đã được cấp phép lưu hành toàn quốc. Các vị thuốc thường được dùng là nhân sâm, bạch linh, bạch truật, liên nhục, ý dĩ, hoài sơn, cam thảo, lô hội, sử quân tử, trần bì, binh lang, mộc hương, mạch nha, sơn tra, thần khúc, kê nội kim, khiếm thực, hoàng liên, thanh đại, hồ hoàng liên, thịt cóc...
Thuốc cam dùng ngoài là các cổ phương như Tích loại tán, Nha cam tán, Ngọc thiềm tán, Tứ vật tán, Thanh ngưu tán, Thanh đại tán, Đởm phàn tán, Xạ hương tán, Ngưu bàng tử tán, Thiềm tô tán... hoặc sử dụng các tân phương, kinh nghiệm dân gian, các bài thuốc gia truyền như thuốc cam Làng Cót, thuốc cam Xanh... đã được cấp phép lưu hành toàn quốc với các vị thuốc thường dùng như bạch phàn, thanh đại, ngũ bội tử, băng phiến, nhân trung bạch, thiềm to, núc nác, xạ hương, khinh phấn, thạch khôi...
Thuốc cam có gây ngộ độc chì không?
Trong y dược học cổ truyền, có một số khoáng vật chứa chì được dùng để làm thuốc như duyên phấn (PbCO3), ô duyên (PbS), mật đà tăng (chủ yếu là PbO) và duyên đơn, còn gọi là hồng đơn, hoàng đơn, diên đơn... (là oxyt chì Pb3O4, có thể viết 2PbO.PbO2, tỷ lệ PbO2 là 34,9%). Trong các cổ phương trị liệu bệnh cam cũng có một số bài thuốc có sử dụng khoáng vật chứa chì như Ngũ bội tử tán, Đởm phàn tán, Định phấn tán và Tứ vật tán dùng hồng đơn, Lan hương tán dùng mật đà tăng. Tuy nhiên, các khoáng vật này được dùng với liều rất thấp, bào chế hết sức cẩn thận, chỉ sử dụng làm thuốc dùng ngoài với một quy trình trị liệu ngắn ngày và luôn luôn được khuyến cáo là có độc.
Nhưng trên thực tế, do thiếu hiểu biết và thiếu thận trọng, các “lang băm” và ngay cả một số ít các thầy thuốc Đông y không được đào tạo chính quy đã dùng các khoáng vật nêu trên đơn độc hoặc phối hợp với một số vị thuốc khác bào chế thành những đông dược thành phẩm dưới dạng thuốc bột, thuốc cam, thuốc viên... dùng ngoài hoặc uống trong hoặc giả nhập khẩu từ Trung Quốc theo con đường không được kiểm định với màu sắc và mẫu mã khác nhau và quảng bá là thuốc “gia truyền” để chữa bệnh một cách tùy tiện, đưa lại những hậu quả hết sức tai hại cho người bệnh.
Tình trạng ngộ độc Đông dược nói chung và thuốc cam có chứa chì nói riêng đã và đang là vấn đề cấp bách, đòi hỏi các giải pháp quyết liệt và triệt để của các cơ quan chức năng. Không thể buông xuôi với các loại thuốc cam “gia truyền” không phép. Và cũng không thể để các cơ sở sản xuất thuốc cam chân chính lâm vào tình trạng “người mua hoang mang, cửa hàng điêu đứng”. Ngoài ra, cũng phải hết sức cảnh giác với tình trạng ngộ độc chì từ không khí, nguồn nước, thực phẩm... bị ô nhiễm từ các vật dụng hàng ngày có chứa nhiều chì do công nghệ chế tạo không chuẩn... vì ngộ độc chì thường xuất hiện rất âm thầm, chỉ khi nào lượng tích tụ một lượng lớn thì triệu chứng mới rõ rệt và khi đó thì đã muộn rồi.
Tham khảo thêm thông tin tại bài viết: Tương tác thuốc của các phương thuốc thảo dược
Để hạn chế tình trạng loãng xương cơ thể cần cung cấp đủ vitamin D và canxi theo nhu cầu của từng lứa tuổi qua chế độ ăn khoa học, đủ dinh dưỡng và giàu canxi.
Trong những năm gần đây, ô nhiễm không khí đã trở thành một trong những vấn đề môi trường nghiêm trọng nhất, ảnh hưởng sâu rộng đến sức khỏe con người ở mọi lứa tuổi. Đặc biệt, trẻ nhỏ đang ở giai đoạn phát triển thể chất và thần kinh lại là nhóm đối tượng dễ tổn thương nhất.
Quả vải tuy ngon miệng và bổ dưỡng nhưng cũng cần đi lưu ý một số điều khi ăn để đảm bảo an toàn cho sức khỏe, đặc biệt là với một số đối tượng.
Thời tiết thất thường có khiến bạn cảm thấy khó chịu. Trời mưa bạn sẽ cảm thấy buồn chán còn trời nắng bạn sẽ cảm thấy vui tươi hơn. Bạn đã bao giờ thắc mắc tại sao cảm xúc của bạn luôn thay đổi khi thời tiết thay đổi hay chưa? Đặc biệt là vào lúc giao mùa? Vậy hãy cùng Viện Y học ứng dụng tìm hiểu thêm với bài viết dưới đây
Ăn rau quả nhiều màu sắc hay còn gọi là 'ăn cầu vồng' không chỉ đơn giản là cách trang trí món ăn hấp dẫn mà còn mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.
Sốt xuất huyết là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm do vi rút Dengue gây ra, lây lan chủ yếu qua vết đốt của muỗi Aedes aegypti. Mặc dù bệnh có thể ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi, trẻ nhỏ lại là đối tượng đặc biệt dễ bị tổn thương do hệ miễn dịch còn non yếu.
Mùa hè với những ngày nắng nóng kéo dài không chỉ là thời điểm để thư giãn mà còn là cơ hội tuyệt vời để người cao tuổi tham gia các hoạt động thể thao dưới nước. Đây là hình thức vận động nhẹ nhàng, ít gây áp lực lên cơ thể, đồng thời mang lại nhiều lợi ích sức khỏe vượt trội.
Đau thắt lưng là một trải nghiệm phổ biến đối với nhiều người. Nó thường có thể dẫn đến đau, ngứa ran hoặc tê ở phần thân dưới. Có nhiều nguyên nhân gây đau thắt lưng, phổ biến nhất bao gồm căng cơ, tư thế xấu và tuổi tác.