Nội tạng động vật là loại thực phẩm được sử dụng phổ biến ở Việt Nam, đặc biệt là nội tạng bò, lợn thường được dân nhậu rất ưa thích. Tuy nhiên, thời gian gần đây có nhiều thông tin cho rằng không nên sử dụng loại đồ ăn này vì nó tiềm ẩn nguy cơ gây bệnh đối với con người, thậm chí là tử vong sau khi sử dụng.
Trước những thông tin trên, người tiêu dùng nên tiếp tục sử dụng hay từ bỏ nội tạng động vật ngay lập tức? Theo các chuyên gia, bất kỳ loại thực phẩm nào cũng có hai mặt "lợi và hại" và nội tạng động vật cũng không phải là ngoại lệ, điều quan trọng nhất là sử dụng bao nhiêu, sử dụng như thế nào và nguồn gốc của những loại nội tạng đó từ đâu.
Thực ra, không phải ngẫu nhiên mà người tiêu dùng lại đưa ra cảnh báo đó, vì nó hoàn toàn có cơ sở, khi hàng loạt các vụ bê bối liên quan đến nội tạng thối được các cơ quan chức năng thu giữ. Nếu không phát hiện kịp thời, những loại nội tạng đó sẽ được "phù phép" bằng các loại hóa chất rồi đưa vào các chợ, quán ăn, nhà hàng và chắc chắn rằng điểm đến cuối cùng là dạ dày của những thượng khách.
Không chỉ có vậy, với thói quen sử dụng nội tạng tái của Việt Nam, nguy cơ mắc bệnh là vô cùng lớn, đặc biệt là nội tạng lợn. Điều này đã được minh chứng qua những ca nhập viện và phải tiêu tốn hàng trăm triệu đồng để điều trị, thậm chí là tử vong vì mắc liên cầu lợn, sán lên não...
Với thói quen sử dụng nội tạng tái của Việt Nam, nguy cơ mắc bệnh là vô cùng lớn. (Ảnh minh họa).
Với những lý do trên, người tiêu dùng có quyền để nói rằng không nên sử dụng nội tạng động vật. Tuy nhiên, nếu xét về mặt dinh dưỡng, nội tạng động vật không phải là loại đồ ăn "bỏ đi" vì nó chứa một hàm lượng dinh dưỡng khá cao và có những tác dụng nhất định đối với cơ thể con người.
Ths. BS Lê Thị Hải – nguyên GĐ Trung tâm khám và tư vấn dinh dưỡng (Viện Dinh dưỡng Quốc gia) cho biết, các loại phủ tạng đều chứa nhiều chất đạm, chất béo, các loại tim, gan chứa nhiều sắt và vitamin A. Nhưng nhược điểm chủ yếu của các loại phủ tạng là chứa nhiều chất béo, đặc biệt hàm lượng cholesterol rất cao, nhất là trong óc, gan và bầu dục.
Việc sử dụng nội tạng động vật cũng tùy vào đối tượng. Ví dụ như các loại phủ tạng đều chứa nhiều cholesterol nên không phù hợp với người cao tuổi, người mắc các bệnh rối loạn chuyển hoá: tăng cholesterol máu, xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, tiểu đường, bệnh gút, bệnh thận, người thừa cân - béo phì... Cho nên người cao tuổi thì nên ăn hạn chế, còn người mắc các bệnh kể trên không nên ăn các loại phủ tạng này.
Theo khuyến cáo từ Viện Dinh dưỡng Quốc gia, nội tạng động vật chỉ nên ăn ở mức độ vừa phải. Cụ thể, người trẻ tuổi nên dừng lại ở mức 2 - 3 lần/tuần (khoảng 50 - 70g/lần), trẻ em chỉ nên ăn 2 lần/tuần (khoảng 30 - 50g/lần).
Ngoài ra, hiện có nhiều quan điểm cho rằng không nên ăn gan động vật vì đây là nơi lọc độc tố, chứa nhiều chất độc gây hại cho cơ thể. Đây là một quan niệm không đúng bởi gan là loại phủ tạng chứa nhiều chất đạm nhất, lại chứa nhiều vitamin A và sắt rất tốt cho trẻ em bị thiếu máu và suy dinh dưỡng. Như vậy ăn gan là tốt chứ không phải là độc.
Các chuyên gia khuyến cáo việc chọn mua gan đảm bảo an toàn là vô cùng quan trọng. Người tiêu dùng nên chọn gan của những động vật không bị bệnh: gan màu đỏ sẫm tươi, không có nốt sần trên mặt gan, khi mua về cắt lát mỏng rửa sạch bằng nước lạnh rồi lấy giấy ăn thấm khô hết máu ứ trong gan, như vậy các chất độc có trong máu của gan đã bị loại bỏ chỉ còn các tế bào gan giàu chất dinh dưỡng.
Qua những phân tích trên có thể thấy rằng việc nên hay không nên ăn nội tạng động vật là hoàn toàn phụ thuộc vào tình trạng bệnh lý, thể trạng của cơ thể. Một điều rất quan trọng nữa đó là phải mua nội tạng động vật những nơi tin cậy, chế biến đảm bảo an toàn và ăn đúng liều lượng, tuyệt đối không ăn sống, tái vì tiềm ẩn nhiều nguy cơ bệnh tật.
Sức khỏe tinh thần không chỉ đơn thuần là không mắc phải các bệnh tâm thần, mà còn là một trạng thái hạnh phúc, nơi mỗi cá nhân có thể nhận ra khả năng của mình, đối phó với những căng thẳng bình thường của cuộc sống, làm việc hiệu quả và đóng góp cho cộng đồng.
Mỗi khi mùa mưa lũ đến, không chỉ cảnh quan thiên nhiên bị ảnh hưởng mà sức khỏe con người cũng đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó tiêu chảy là một trong những mối đe dọa phổ biến nhất. Nước lũ tràn ngập mang theo vô số vi sinh vật gây hại, làm ô nhiễm nguồn nước và thực phẩm, tạo điều kiện cho các mầm bệnh phát triển mạnh mẽ.
Răng khấp khểnh là tình trạng phổ biến và ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Nguyên nhân bao gồm di truyền, răng mọc chen chúc, vấn đề về hàm, mất răng, chấn thương mặt và thói quen vệ sinh răng miệng không đúng cách.
Trong bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, mạng xã hội đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là đối với giới trẻ. Các nền tảng như Facebook, Instagram, TikTok, Thread không chỉ là công cụ giao tiếp, chia sẻ thông tin mà còn là nơi giải trí phổ biến. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích rõ ràng, việc sử dụng mạng xã hội một cách mất kiểm soát đang đặt ra nhiều thách thức nghiêm trọng đối với sức khỏe tinh thần của thế hệ trẻ trên toàn cầu.
Việc tiêm chủng từ lâu đã được coi là một trong những thành tựu y học nổi bật, mang lại sự bảo vệ thiết yếu cho cả trẻ em và người lớn trước các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Rau xanh và trái cây tươi là nhóm thực phẩm thiếu yếu trong chế độ ăn hằng ngày nhưng nhiều người còn băn khoăn chưa biết lượng rau quả nên ăn mỗi ngày bao nhiêu là đủ?
Người cao tuổi thường cần ít năng lượng hơn so với khi còn trẻ, nhưng nhu cầu về các chất dinh dưỡng thiết yếu (vitamin, khoáng chất, protein, chất béo lành mạnh, carbohydrate phức hợp) vẫn tương đương hoặc thậm chí cao hơn.
Vibrio vulnificus là một loại trực khuẩn gram âm, di động, ưa mặn được tìm thấy ở khắp mọi nơi, chủ yếu ở vùng nước mặn và nước lợ ven biển. V. Vulnificus gây ra 1 trong 3 hội chứng riêng biệt: viêm dạ dày-ruột, nhiễm trùng huyết tiên phát và nhiễm trùng vết thương với tỉ lệ tử vong cao. Bệnh thường xẩy ra ở những người mắc bệnh gan mãn tính, suy giảm miễn dịch, hoặc các bệnh gây thừa sắt trong cơ thể. Khi nghi ngờ nhiễm V. Vulnificus dựa trên tiền sử, dịch tễ, diễn biến lâm sàng, vi khuẩn học, kháng sinh thích hợp cần dùng càng sớm càng tốt và can thiệp ngoại khoa khi có chỉ định.