A1 và A2 là gì?
Casein là nhóm protein chủ yếu có trong sữa, chiếm khoảng 80% tổng hàm lượng protein sữa. Có một số loại casein trong sữa. Beta-casein là loại phổ biến thứ hai và tồn tại ở ít nhất 13 dạng khác nhau.
2 dạng beta - casein phổ biến nhất là:
Sữa thông thường có chứa cả A1 và A2 beta-casein, nhưng sữa A2 chỉ chứa A2 beta-casein. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng A1 beta-casein có thể gây hại, chính vì thế A2 beta-casein trở thành lựa chọn an toàn hơn.
Những vấn đề liên quan đến casein A1
Beta-casomorphin-7 (BCM-7) là một peptide opioid được giải phóng trong quá trình tiêu hoá A1 beta-casein. Đó là lý do tại sao một số người cho rằng sữa thường không mang đến nhiều lợi ích sức khoẻ như sữa A2. BCM-7 có thể liên quan đến bệnh tiểu đường loại 1, bệnh tim, tử vong ở trẻ sơ sinh, bệnh tự kỷ và các vấn đề về tiêu hoá.
Mặc dù BCM-7 có thể ảnh hưởng đến hệ tiêu hoá nhưng vẫn chưa rõ BCM-7 được hấp thụ nguyên vẹn vào máu ở mức độ nào. Các nghiên cứu không tìm thấy BCM-7 trong máu của người lớn khoẻ mạnh uống sữa bò, nhưng một số xét nghiệm cho thấy BCM-7 có thể xuất hiện ở trẻ sơ sinh.
Các ảnh hưởng của BCM-7 đến sức khoẻ vẫn chưa được rõ ràng.
Bệnh tiểu đường loại 1
Bệnh tiểu đường loại 1 thường được chẩn đoán ở trẻ em và có đặc điểm là thiếu insulin. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng uống sữa A1 khi còn nhỏ làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 1, tuy nhiên đây là nghiên cứu quan sát và không làm rõ được mối quan hệ nhân quả. Cho đến nay, chưa có thử nghiệm lâm sàng nào ở người nghiên cứu tác dụng của A1 beta-casein đối với bệnh tiểu đường loại 1.
Bệnh tim
Một thử nghiệm trên thỏ cho thấy A1 beta-casein thúc đẩy sự tích tụ chất béo trong các mạch máu bị tổn thương. Sự tích tụ này thấp hơn nhiều khi thỏ tiêu thụ A2 beta-casein. Trong một nghiên cứu ở 15 người trưởng thành có nguy cơ mắc bệnh tim cao, không thấy tác dụng phụ đáng kể nào. A1 và A2 có tác dụng tương tự đối với chức năng mạch máu, huyết áp, mỡ máu và các dấu hiệu viêm.
Ngoài ra, A1 hay A2 cũng không để lại sự khác biệt đáng kể gì tới cholesterol trong máu.
Hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh
Hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS) là nguyên nhân gây tử vong phổ biến nhất ở trẻ dưới 12 tháng tuổi, không có nguyên nhân rõ ràng. BCM-7 có thể liên quan đến một số trường hợp mắc hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh. Một nghiên cứu cho thấy nồng độ BCM-7 cao trong máu của trẻ sơ sinh mắc chứng ngưng thở khi ngủ. Tình trạng ngưng thở khi ngủ có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh.
Kết quả này chỉ ra rằng một số trẻ có thể nhạy cảm với A1 beta-casein có trong sữa bò. Tuy nhiên, cần có những nghiên cứu sâu hơn trước khi đưa ra bất kỳ kết luận chắc chắn nào.
Tự kỷ
Tự kỷ là một tình trạng tâm thần đặc trưng bởi sự tương tác xã hội kém và hành vi lặp đi lặp lại. Các peptide như BCM-7 có thể đóng vai trò trong sự phát triển của bệnh tự kỷ. Một nghiên cứu ở trẻ sơ sinh cho thấy hàm lượng BCM-7 cao hơn ở những trẻ được nuôi bằng sữa bò so với những trẻ được bú sữa mẹ. Đáng chú ý, nồng độ BCM-7 giảm nhanh chóng ở một số trẻ sơ sinh trong khi vẫn ở mức cao đối với những trẻ khác. Đối với những người duy trì được mức độ cao BCM-7 có liên quan chặt chẽ đến khả năng lập kế hoạch và thực hiện hành động bị suy giảm. Cho đến nay, chưa có thử nghiệm nào trên người nghiên cứu cụ thể về tác động của sữa A1 và A2 đối với các triệu chứng tự kỷ.
Sức khoẻ tiêu hoá
Không dung nạp lactose là tình trạng không có khả năng tiêu hoá hoàn toàn đường sữa (latose). Đây là nguyên nhân phổ biến gây đầy hơi và tiêu chảy. Lượng lactose trong sữa A1 và A2 là như nhau . Tuy nhiên, một số người cho rằng sữa A2 ít gây đầy hơi hơn sữa A1.
Trên thực tế, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng các thành phần sữa khác ngoài lactose cũng có thể gây khó chịu về tiêu hoá. Một số protein trong sữa có thể là nguyên nhân gây ra tình trạng không dung nạp sữa ở một số người.
Một nghiên cứu chỉ ra sữa A1 khiến phân mềm hơn sữa A2 ở một số người. Trong khi một nghiên cứu khác trên đối tượng là người người trưởng thành, sữa A2 giúp giảm khó chịu tiêu hoá sau bữa ăn hơn.
Ngoài ra, một số nghiên cứu trên động vật và người cho thấy A1 beta-casein có thể làm tăng tình trạng viêm trong hệ tiêu hoá.
Ăn uống lành mạnh là một thói quen tốt cần duy trì mọi lúc, mọi nơi, nhưng nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong mùa thi khi mà các sĩ tử phải tập trung cao độ để có kết quả tốt nhất.
Béo phì gắn liền với những bệnh liên quan đến hệ tiêu hóa, trong đó có chứng ợ nóng. Tìm hiểu nguyên nhân cân nặng quá mức làm tăng nguy cơ trào ngược dạ dày thực quản cũng như cách để kiểm soát tại nhà.
Bằng chứng khoa học cho thấy bột ngọt (monosodium glutamate) an toàn cho mọi người ở mọi lứa tuổi, kể cả trẻ em, trẻ sơ sinh và phụ nữ mang thai.
Chế độ ăn uống hàng ngày là một công cụ mạnh mẽ trong việc duy trì sức khỏe của hệ thống tiền đình và giảm các triệu chứng liên quan đến rối loạn tiền đình.
Chăm sóc sức khỏe trước khi mang thai là một bước quan trọng để đảm bảo một thai kỳ khỏe mạnh. Nhiều phụ nữ tập trung vào việc bổ sung dinh dưỡng và thay đổi lối sống ngay khi biết mình có thai. Tuy nhiên, các bước chuẩn bị sẽ hiệu quả hơn nếu được thực hiện trước khi thụ thai ít nhất từ 3-6 tháng.
Các rối loạn về giác quan, bao gồm cả cảm giác ngứa, có thể xảy ra trong bệnh đa xơ cứng. Đôi khi, những cảm giác này có thể là dấu hiệu sớm của bệnh.
Mặc dù chuối là một loại trái cây giàu dinh dưỡng nhưng theo y học cổ truyền Ấn Độ, sự kết hợp chuối và một số thực phẩm sẽ gây khó chịu cho hệ tiêu hóa đối với một nhóm người.
Cùng với tuân thủ điều trị theo chỉ định của bác sĩ, chế độ ăn uống đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa loét dạ dày do nhiễm vi khuẩn HP.