Tổng hội y học Việt Nam

Viện y học ứng dụng Việt Nam
ứng dụng y học vì sức khỏe người việt nam

Sử dụng steroid trước sinh giảm nguy cơ mắc bệnh đường hô hấp ở trẻ sinh non muộn

Theo một nghiên cứu được thực hiện bởi Viện y tế quốc gia Hoa Kỳ, liệu pháp sử dụng steroid trước sinh sẽ giúp giảm nguy cơ gặp phải các biến chứng hô hấp trong nhóm trẻ sinh non muộn từ 34-36 tuần tuổi.

Steroid là một liệu pháp điều trị chuẩn cho những phụ nữ có nguy cơ sinh trước tuần 34 bởi đây là nhóm thuốc có thể làm giảm những biến chứng trên hô hấp cũng như giảm số ca tử vong trong số những trẻ sinh non sớm. Hiện nay các nhà khoa học đã phát hiện thêm rằng steroid cũng đồng thời giảm sự xuất hiện của các biến chứng hô hấp nghiêm trọng trong nhóm trẻ sinh non muộn.

Trước đây, người ta cho rằng những trẻ sinh non nhưng ở giai đoạn muộn vẫn có thể phát triển bình thường cho dù người mẹ có sử dụng steroid hay không. Tuy nhiên, sau này họ cũng nhận thấy rằng trẻ sinh non muộn có nguy cơ cao gặp phải những biến chứng trên hô hấp so với những trẻ sinh sau tuần 37.

Theo tác giả của nghiên cứu Uma Reddy, khoảng 8% trong số tất cả các ca sinh đẻ là sinh non muộn. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng sử dụng liệu pháp điều trị bằng steroid trước sinh cho phụ nữ có nguy cơ sinh non muộn có tác dụng giảm đáng kể các biến chứng nghiêm trọng trên hô hấp trong nhóm trẻ sơ sinh.

Theo bác sỹ Carol Blaisdell, giảm các biến chứng hô hấp ở trẻ sơ sinh sẽ giúp ngăn ngừa những tổn thương cho phổi, giảm số lần nhập viện, tăng cường mối gắn kết giữa mẹ và con và giúp phổi của trẻ trưởng thành tốt hơn cũng như tăng cường sức khỏe về mặt tổng thể.

Những phụ nữ tham gia nghiên cứu đều đang mang thai từ tuần 34 – tuần 36 và có nguy cơ cao phải sinh sớm (trước tuần 37). Các nhà khoa học đã phân chia ngẫu nhiên 2,831 những người tham gia vào 2 nhóm: một nhóm được nhận 2 mũi tiêm steroid betamethason và nhóm còn lại được nhận giả dược, khoảng cách giữa hai lần tiêm là 24 giờ.

Các nhà nghiên cứu phân loại kết quả nghiên cứu vào một tiêu chuẩn tổng hợp duy nhất, một kết cục chính xuất phát từ nhu cầu về bất kỳ liệu pháp nào được sử dụng để điều trị khó thở ở trẻ sơ sinh, bao gồm:              

  • Thở áp lực dương liên tục (CPAP) - sử dụng áp lực không khí nhẹ, sao cho có đủ không khí đến phổi.
  • Liệu pháp oxy - oxy với nồng độ cao hơn nồng độ trong phòng được đi vào phổi trẻ.
  • Thở máy - một ống được đặt vào khí quản của trẻ và cung cấp oxy cho phổi của trẻ.

Kết quả chính cũng bao gồm việc trẻ có bị chết lưu hay chết trước 72 giờ tuổi hay không.

Trong kết luận của nghiên cứu, 11.6% trẻ sơ sinh trong nhóm sử dụng betamethason đáp ứng tiêu chuẩn cho kết quả chính - và giảm 20% về nhu cầu hỗ trợ hô hấp tại thời điểm 72 giờ tuổi, so với nhóm dùng giả dược. Hai trẻ trong nhóm betamethason chết trước 72 giờ tuổi, nhưng nguyên nhân tử vong không phải do biến chứng hô hấp. Một trẻ tử vong do dị tật tim bẩm sinh và một là do nhiễm trùng huyết. Tỷ lệ bị nhiễm trùng huyết trong cả hai nhóm là tương đương nhau.

Các nhà khoa học cũng đánh giá trẻ sơ sinh theo một số kết quả phụ. Thứ nhất, bệnh hô hấp nặng, bao gồm sự cần thiết phải điều trị bằng CPAP hoặc thở oxy trong ít nhất 12 giờ liên tục, nồng độ oxy cao trong ít nhất 24 giờ, hoặc thở máy. Một lần nữa, nhóm betamethason ở tình trạng tốt hơn, với 8.1% đủ tiêu chuẩn cho kết quả phụ này – giảm 33% bệnh hô hấp nghiêm trọng so với nhóm giả dược. Trẻ sơ sinh trong nhóm dùng betamethasone cũng có vẻ như ít bị thở nhanh thoáng qua (có dịch trong phổi) hoặc loạn sản phế quản phổi - tổn thương mô và sẹo có thể dẫn đến phải thở oxy hoặc  hỗ trợ thở máy.

Ngoài ra, trẻ sơ sinh trong nhóm betamethason có nồng độ đường huyết thấp hơn so với nhóm giả dược (24% vs. 14.9%). Nhìn chung, sử dụng betamethason cho phụ nữ có nguy cơ sinh non muộn giảm tỷ lệ biến chứng hô hấp ở trẻ sinh ra. Mặc dù thuốc làm tăng nguy cơ hạ đường huyết ở trẻ sơ sinh, không có sự khác biệt khác về tỷ lệ biến chứng giữa các trẻ sơ sinh hoặc người mẹ.

Ths Hồng Khánh - Viện y học ứng dụng Việt Nam (theo Medical newstoday)
Bình luận
Tin mới
Xem thêm